Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam bộ (còn gọi
là Đờn ca tài tử) là loại hình nghệ thuật dân gian đặc trưng của Việt Nam, được
hình thành và phát triển từ cuối thế kỉ 19. Đờn ca tài tử là nghệ thuật của đờn
(đàn) và ca, do những người bình dân Nam bộ sáng tác để hát chơi sau những giờ
lao động. Chữ “tài tử” có nghĩa là người chơi nhạc có biệt tài, giỏi về cổ
nhạc. Lúc đầu chỉ có đờn, sau xuất hiện thêm hình thức ca nên gọi là đờn ca.
Đặc điểm nghệ thuật của Đờn ca tài tử
Các bài bản của Đờn ca tài tử được sáng
tạo dựa trên cơ sở nhạc Lễ, nhạc Cung đình, nhạc dân gian miền Trung và Nam.
Các bài bản này được cải biên liên tục từ 72 bài nhạc cổ và đặc biệt là từ 20
bài gốc (bài Tổ) cho 4 điệu (hơi), gồm: 06 bài Bắc (diễn tả sự vui tươi, phóng
khoáng), 07 bài Hạ (dùng trong tế lễ, có tính trang nghiêm), 03 bài Nam (diễn
tả sự an nhàn, thanh thoát) và 04 bài Oán (diễn tả cảnh đau buồn, chia ly).
Nhạc cụ được sử dụng trong Đờn ca tài tử gồm: đàn kìm, đàn tranh,
đàn cò, đàn tỳ bà, đàn tam (hoặc đàn sến, đàn độc huyền), sáo, tiêu, song
loan... Từ khoảng năm 1930 có thêm đàn ghita phím lõm, violon, ghita Hawaii
(đàn hạ uy cầm).
Người thực hành Đờn ca tài tử gồm: người
dạy đàn (thầy Đờn) có kỹ thuật đàn giỏi, thông thạo những bài bản cổ, dạy cách
chơi các nhạc cụ; người đặt lời (thầy Tuồng) nắm giữ tri thức và kinh nghiệm,
sáng tạo những bài bản mới; người dạy ca (thầy Ca) thông thạo những bài
bản cổ, có kỹ thuật ca điêu luyện, dạy cách ca ngâm, ngân, luyến,...;
người đờn (Danh cầm) là người chơi nhạc cụ và người ca (Danh ca) là người thể
hiện các bài bản bằng lời.
Đờn ca tài tử được thực hành theo nhóm, câu lạc bộ và gia đình, ít khi nhạc công độc tấu, mà thường song tấu, tam tấu,
hòa tấu. Dàn nhạc thường cùng ngồi trên một bộ ván hoặc chiếu để biểu diễn với
phong cách thảnh thơi, lãng đãng, dựa trên khung bài bản cố định gọi là “lòng
bản”. Khán giả có thể
cùng tham gia thực hành, bình luận và sáng tạo.
Đờn ca tài tử được truyền dạy theo hai
hình thức: truyền ngón, truyền khẩu trực tiếp tại nhà, câu lạc bộ, gia đình,
dòng họ; truyền ngón, truyền khẩu kết hợp với giáo án, bài giảng tại một số
trường văn hóa nghệ thuật địa phương và quốc gia. Người học đàn cần ít nhất 3
năm để học những kỹ năng cơ bản như: rao,
rung, nhấn, khảy, búng, phi, vê, láy, day, chớp, chụp…; học chơi độc chiếc, tam
tấu, tứ tấu, ngũ tấu, lục tấu với các nhạc cụ khác nhau. Người học ca (đơn ca, song ca) học
những bài truyền thống, trên cơ sở đó sáng tạo cách nhấn nhá, luyến láy tinh tế
theo nhạc điệu và lời ca của bài gốc.
Người miền Nam coi Đờn ca tài tử là sinh
hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu trong các dịp lễ hội, tết, giỗ, cưới,sinh nhật, họp mặt,… Lễ
giỗ Tổ được tổ chức vào ngày 12/8 âm lịch hàng năm.
Có lịch sử khá lâu đời và được bắt nguồn
từ truyền thống văn hóa đa dạng của miền Trung và miền Nam Việt Nam, Đờn ca tài
tử luôn khẳng định rõ vai trò không thể thiếu của mình trong đời sống xã hội
người Việt, được cộng đồngcư dân ở vùng miệt vườn, sông nước Nam bộ tự
nguyện chấp nhận, tự do tham gia thực hành, sáng tạo, góp phần tạo nên sự đa
dạng của văn hóa Việt Nam.
Đờn ca tài tử luôn được bổ sung, làm
mới bằng cách kế thừa, kết hợp giá trị âm nhạc Cung đình, dân gian; đồng thời
giao lưu, tiếp biến các yếu tố văn hóa của người Khmer, Hoa và phương Tây.
Đờn ca tài tử là loại hình sinh hoạt văn
hóa gắn kết cộng đồng, phản ánh tâm tư, tình cảm và phù hợp với lối sống
cần cù, phóng khoáng, cởi mở và can trường của người dân Nam bộ. Thông qua
việc thực hành Đờn ca tài tử, các tập quán xã hội khác như: lễ hội, văn hóa
truyền khẩu, nghề thủ công,… cũng được bảo tồn và phát huy.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét